SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH
*
*
Người con mù của vua A-dục
Hai trăm năm sau ngày Phật Cồ-đàm nhập diệt, một viên tướng tên là A-dục (35) (Ashoka) nắm quyền lãnh đạo Ấn Độ. Là một vị vua nay uy quyền, ông thống nhất sứ xở chia năm sẻ bảy, cho xây đường xá, đào giếng, bệnh viện nhà nghỉ và nhất là bảo tháp, đền miếu, mà ngày nay người ta vẫn còn xem là một trong những công trình to lớn của con người. Mới đầu A-dục vương (35) là một con người hiếu chiến, nhưng về sau ông được một Tăng sĩ Phật giáo khuyên nên theo chủ trương hòa hiếu, bất bạo động. Nhà vua gặp vị Tăng sĩ này lần đầu trên đường đầy bụi bặm và thấy xót thương. Nhưng khi tới gần, ông nhận ra ánh sáng an tịnh trên khuôn mặt vị tu sĩ, và ông thấy nơi người du khất này một cái gì mà một quốc vương như ông tìm kiếm lâu ngày chưa được.
A-dục gia nhập tăng đoàn và bắt đầu thiền định. Ông đi sâu vào giáo lý của Phật và nhiều lần hành hương đến thăm cây Bồ-đề tại Giác Thành, một gốc cây thánh vì đây là nơi Phật Cồ-đàm thành đạo. Trước đó không lâu, vua A-dục lấy vợ, nàng tên là Tisja Rakscha. Vị hoàng hậu này không vui khi thấy nhà vua cứ đến tham vấn Tăng đoàn, không quan tâm đến nàng.
Tisja Rakscha cảm giác bị bỏ bê và ghen tức đến mức nàng sai cận thần ghi chép giờ giấc nhà vua đến Giác Thành bao nhiêu và thời gian dành cho nàng bao nhiêu. Cuối cùng khi so sánh, nàng giận dữ tới mức sai cận thần cho đốn chặt cây Bồ-đề. Cây đó bị chặt thật nhưng lạ lùng thay, qua ngày mai nó lại mọc lên như cũ.
Sau đó Tisja tìm mọi cách quyến rũ người con trai lớn của A-dục. Thái tử Kunala là con ghẻ của nàng và là người thừa kế ngôi cha. Nhưng Kunala biết rõ âm mưu của nàng lên thẳng thừng từ chối. Vị hoàng hậu trẻ tuổi hậm hực và quyết báo thù hai cha con.
Nhân dịp nhà vua lại đi thăm đền ở Giác Thành, hoàng hậu âm mưu với triều đình bắt tội Kunala nhốt vào ngục, bộ hạ của nàng lẻn vào ngục khoét mắt chàng.
Không ai cứu chàng kịp, chàng trở thành mù lòa. Trong cơn tuyệt vọng, chàng nhớ lời một vị hiền nhân đã già nói cách đó nhiều năm: “Không có gì trên đời này là thường hằng. Bất cứ điều gì ngươi sẽ có, rồi nó cũng sẽ mất. Vì vậy hãy giữ những gì mà ngươi là, và lúc đó những cái mất lớn nhất sẽ trở thành những cái được lớn nhất”.
Cai ngục lấy mất ánh sáng của mắt chàng thì ngay lúc đó ánh sáng trí tuệ bùng lên và Kunala thấy tất cả sự vật đúng như chúng là, vượt ra ngoài thông thường cảm nhận của thế gian. Bây giơ chàng biết vị hiền nhân nọ đã biết trước số phận của chàng nhưng không ra tay cứu giải.
Càng lúc, Kunala càng đi sâu vào thế giới bên trong và để mặc cho trời đất muốn xử sao với người có tội cũng được. Chàng không cần khai báo gì cả vì A-dục không bao lâu sau đã biết ai là người gây tội khoét mắt con mình và cho Tisja Rakscha hưởng hình phạt xứng đáng.
Kunala rời bỏ ngai vàng và nhường ngôi cho con trai làm vua Ấn Độ. Sau đó ông rút vào rừng miền Tây Bắc, sống như một tu sĩ và an nhiên tu tập thiền định. Cuối cùng, chàng đối trị được lòng sân hận luôn luôn quay trở về trong tâm và hoàn toàn xả bỏ. Rồi cũng tới ngày mà chàng cảm tạ Tisja Rakscha về hành động xấu ác đó, vì cũng nhờ đó mà chàng mở được con mắt trí tuệ và lên ngôi vua của sứ xở nằm ngay trong tâm mình.
Từ một con người mù loà Kunala đã sinh ra một bậc A-la-hán có thiên nhãn, một bậc hiền nhân. Vô số con ngưòi đã tìm được an ủi và sự cứu độ với vị đó.
- Tác giả : Surya Das
- Dịch giả : Nguyễn Tường Bách
*
PHỤ CHÚ:
35. A-dục vương (Ashoka): Vua xứ Maurya miền Bắc Ấn Độ, trị vì từ năm 272 đến 236 trước dương lịch. Mất năm 231. Trong lịch sử Ấn Độ ông để lại nhiều dấu tích quan trọng. Sau cuộc viễn chinh năm 260, ông tỉnh ngộ và theo Phật giáo, quyết định thành lập “quốc vương phụng sự Phật pháp”. Ông đi khắp nước để bảo vệ luật lệ và chánh pháp. Ông cũng là người cổ vũ việc ăn chay và chống tệ giết thú cúng tế. Trong thời của ông, đạo Phật phát triển mạnh ở Tích Lan. Một người con trai của ông là Mahinda cũng rất có công với đạo Phật. Tài liệu về ông rất nhiều sai khác. Theo văn hệ Pali, ông là một quốc vương chỉ phụng sự đạo Phật. Theo tài liệu khảo cổ, nhất là tư liệu khắc trên đá do chính ông cho ghi lại thì ông ủng hộ tất cả các giáo phái, đúng như trách nhiệm của một nhà vua. Các tư liệu khắc trên đá hay dùng từ Pháp (dhamma). Người thấy rằng ở đây không phải là Phật pháp mà là một hệ thống luân lý, do nhiều trào lưu tôn giáo thời đó tổng hợp lại. Quan điểm của Atisha là làm sao cho thần dân được hạnh phúc, trong đó gồm tự do, từ bi, tránh chém giết, biết giữ giới, tôn trọng sự thật, hướng nội… Dưới triều đại ông, nhà nước can thiệp vào Tăng đoàn khi Tăng đoàn bị đe dọa chia rẽ. Lần đó một số Tăng sĩ bị loại khỏi giáo hội và hoàn tục.
*
THAM KHẢO THÊM :