SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH
*
Nữ Thần Tara (Nguồn hình > Internet)
*
Giáo pháp tuyệt vời của Tịch Thiên
Tịch Thiên (15) là một vương tử, sống cách đây khoảng 1200 năm tại Ấn độ. Xứ Ấn Độ ngày xưa gồm có nhiều vương quốc nhỏ, trị vì theo cách cha truyền con nối. Vì thế, nếu có vị vương tước nào từ chối ngôi vua, theo sống độc cư, thực hành thiền định thì đó cũng là chuyện hi hữu.
Từ nhỏ, Tịch Thiên đã nằm mơ thấy nữ thần Tara hiện đến và khuyên không nên đem trí tuệ của mình áp dụng vào chuyện không đâu, đừng để cho cái chết đến mà không giác ngộ. Trong đêm trước khi Tịch Thiên được tôn vương thì Bồ-tátVăn-thù (16), hiện thân của trí tuệ hiện đến và nhắc nhở lại điều này. Sau đó Tịch Thiên từ ngôi, vào rừng sống như một tu sĩ và thực hành thiền định. Sau nhiều năm sống độc cư, Tịch Thiên về đại học Na-lan-đà (28) ở Bihar và thệ nguyện giữ hạnh Tăng sĩ tại đó. Ngài không ưa gần gũi sinh viên và hay rút về căn phòng của mình. Tại đó, bạn đồng học và thầy giáo khám phá ra ngài ăn mỗi ngày năm bữa cơm.
Không bao lâu sau, người ta đặt tên ngài là “Busuku”, dịch nguyên nghĩa là “kẻ chỉ biết ăn, ngủ và ỉa”. Ngài còn bị đặt thêm những cái tên như “bị gạo”, vì thực tế ngài có vẻ lơ là, lười nói. Như bao nhiêu trường hợp khác, không mấy ai biết trong chàng thanh niên này đang diễn ra điều gì.
Thậm chí nhiều bạn đồng học của Tịch Thiên cho rằng ngài làm hại thanh danh của viện và tìm cách đuổi chàng khỏi trường. Họ họp nhau bầy ra mưu kế như sau: trong một buổi hội thảo công khai, mỗi sinh viên phải đọc thuộc lòng một bài Kinh. Trong đó chắc chắn Tịch Thiên không thuộc bài nào, thế nào ngài cũng phải bỏ trường mà đi. Mới đầu Tịch Thiên không chịu tham gia buổi hội thảo. Cuối cùng thấy liệu không tránh khỏi, ngài chịu dự với điều kiện: Ngài phải ngồi trên một ngai chỉ dành riêng cho các vị đạo sư hay ngồi. Bạn đồng học đều ngạc nhiên trước đòi hỏi vô lý này nhưng họ nghĩ rằng như thế sau đó sẽ càng làm chàng thêm xấu hổ, nên họ đồng ý.
Tới ngày hội thảo ngài mạnh dạn đi lên ngai, ngồi xuống với dáng điệu của một vị vương tước và hỏi các vị thông thái trong hội thảo muốn nghe lại các Kinh điển cũ hay một giáo pháp hoàn toàn mới.
Các bạn đồng học kinh ngạc, nhưng họ đồng ý nghe cái gì mới mẻ và hy vọng như thế càng làm cho chàng sai trái hơn.
Sau đó Tịch Thiên bắt đầu niệm danh hiệu của chư Phật, chư Bồ-tát trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, với một giọng niệm thi vị tuyệt vời. Sau khi niệm Tịch Thiên hầu như trở thành chư Phật ba đời, ngài thuyết liên tục và văn chương tuôn ra như có âm điệu trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Đó là tác phẩm Bồ-đề hành kinh (27) vô song, còn truyền lại cho đến ngày nay.
Tịch Thiên vừa giảng đến chương thứ chín, nội dung nói vế tính chất vô ngã của toàn bộ sự vật thì bỗng nhiên thân ngài hầu như mất hết sức nặng và lơ lửng trên ngai. Sau một lúc thì thân ngài biến mất và hội chúng chỉ còn nghe tiếng nói, nghe âm điệu du dương và chấm dứt tác phẩm với mười chương.
Tất cả mọi người bây giờ mới biết Tịch Thiên là một vị Phật và lúc nầy biểu lộ lòng kính trọng thì ngài đã biến mất và không còn trở lại Na-lan-đà nữa. Bạn đồng hành của Tịch Thiên đã đạt được mục đích của mình, nhưng họ hối tiếc xiết bao. Họ tìm lại trong phòng ngài thì chỉ thấy hai cuộn Kinh, hai cuộn này cũng còn lưu truyền tới ngày nay.
Ngày nay người ta xem Tịch Thiên, người như một con sư tử, là một vị đắc đạo nhất của đạo Phật. Tác phẩm Bồ-đề hành kinh của ngài ngày nay vẫn còn được nghiên cứu và đuợc nhiều kẻ tầm đạo trên khắp thế giới học thuộc lòng.
- Tác giả : Surya Das
- Dịch giả : Nguyễn Tường Bách
*
PHỤ CHÚ:
(16) Văn-thù (Manjusri): Bồ-tát tượng trưng cho trí tuệ, một trong những vị Bồ-tát quan trọng của Phật giáo. Lần đầu tiên được nhắc đến trong tác phẩm Ayamanjusrimulakalpa thuộc thế kỷ IV. Tranh tượng trình bày Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Người ta xem đó là biểu tượng trí tuệ phá đêm tối của vô minh. Ngài được xưng tán trước khi hành giả nghiên cứu kinh điển, nhất là kinh điển thuộc Trung Luận tông. Ngài tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ. Ngài cũng xuất hiện dưới dạng phẫn nộ, có tên là Yamantaka (Kẻ chiến thắng thần chết), có dạng vị thần đầu bò. Đây là dạng thần bảo hộ Yidam quan trọng của Gelugpa. Trong Phật giáo Tây Tạng, các vị luận sư xuất sắc như Tsongkhapa thường được xem là một hiện thân của Văn-thù.
(27) Bồ Đề Hành Kinh : tác phẩm của Shantideva, trình bày các bước tu học Bồ-tát vị, từ lúc phát Bồ-đề tâm (Bodhicitta) cho đến lúc đạt trí Bát-nhã (Prajna), dựa trên sáu Ba-la-mật (Paramita). Kinh Bồ-đề hướng dẫn cho cư sĩ hay người mới nhập dòng. Trong tác phẩm này Tịch Thiên giảng giải hai phép thiền quán đặc biệt nhằm giúp vị Bồ-tát tương lai nhận biết tại sao mình lại cứu độ chúng sinh và từ đó mà có các hành động cần thiết. Một mặt, hành giả phải tu học phép quán chiếu cái nhất thể giữa mình và người (paramasamatha), mặt khác phải học phép hoán chuyển giữa mình và người (paratmaparivartana).
(28) Nalanda: viện Phật học danh tiếng tại Ấn Độ, được Chakraditya, tiểu vương Magadha, thành lập vào thế kỷ thứ hai. Dần dần Nalanda trở thành trú xứ của các luận sư nổi tiếng của Trung Luận tông như Long Thọ, Thánh Thiên, Vô Trước, Thế Thân giảng dạy. Các vị này đều lần lượt làm viện trưởng. Nalanda lúc đông nhất có đến 10.000 học viên. Các khách phương xa như Huyền Trang, Pháp Hiển, Nghĩa Tịnh đều đến đây tu học. Nalanda là nơi giảng dạy dạo Phật, kéo dài được 1000 năm. Tại Tây Tạng có một học viện cũng được đặt tên là Nalanda, xây dựng năm 1351. Theo Huyền Trang và Nghĩa Tịnh thì các tu sĩ học pháp Nhân minh luận, toán, y học. Ngoài các vị viện trưởng còn có các vị hộ pháp (Dharmapala), Trần-na (Digagna), Huyền Trang, An Tuệ (Sthiramathi) giảng dạy. Nalanda bị tín đồ Hồi giáo phá hủy vào thế kỷ 12 và 13.
*