SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH
*
*
Về sự tái sinh
Khoảng một ngàn năm sau khi Phật Cồ-đàm từ trần thì giáo pháp đã có nhiều phát triển trong giới trí thức Ấn Độ. Một trong những luật sư xuất sắc thời đó là Chandra, người vừa có cái thư thả của bậc giác ngộ, lại có cái tài hùng biện và lý luận sắc sảo của một người trí thức. Vì thế ông cũng được nhiều người ủng hộ, và những kẻ khác ý kiến thì lại rất gờm.
Ngày nọ, một pháp sư Ấn Độ tổ chức cuộc tranh luận trong một ngôi đền với sự có mặt của Chandra. Lúc đó các cuộc tranh luận như thế rất hiện hành. Cuối cùng, các vị đứng đầu các giáo phái có mặt lần đó, có cả các vị theo chủ nghĩa vô thần và nhà vua đều thừa nhận Chandra là người thắng cuộc tranh luận. Sau đó vị pháp sư nọ cho rằng "việc Chandra thắng cuộc chưa chứng minh được giáo pháp đạo Phật là ưu việt. Nhiều nhất họ chỉ nói rằng Chandra là người có tài hùng biện thôi”.
Nghe nói thế thì mọi người đều đồng ý, kể cả Chandra. Vị pháp sư nọ quả quyết không hề có bằng cớ về sự tái sinh và như thế, nguyên lý “nghiệp lực, nhân quả” cũng không đứng vững, "nếu không chứng minh được có kiếp trước thì không thể thừa nhận có kiếp sau”. Vị pháp sư thách đấu Chandra: "Nếu bạn có bằng cớ chứng thực về sự tái sinh, tôi sẽ cùng toàn bộ đệ tử theo Phật giáo hết”.
Chandra nhắm mắt im lặng hồi lâu, làm như suy nghĩ điều gì . Sau đó ông cười: "Được, nếu nhà vua chịu làm chứng thì ngay hôm nay ta sẽ chết và sẽ chủ động tái sinh theo một cách để chứng minh được có sự luân hồi”.
Vị pháp sư nọ ngạc nhiên và chấp nhận, tuy thế ông vẫn không tin rằng Chandra chịu hy sinh mạng sống quý giá này chỉ để chứng minh điều này.
Chandra nhờ nhà vua và cận vệ cho mang vào một chiếc áo quan bằng đồng. Sau đó ông vẽ lên trán một dấu hiệu màu đỏ, ngậm một hòn ngọc trai trong miệng và nằm vào áo quan chờ chết. Chỉ vài phút sau ông đã từ bỏ thân thể và nhà vua cho niêm phong áo quan.
Chandra là người đã từ bỏ ảo giác về sinh tử nên ông chủ động nhập mẫu thai ngay trong đêm đó của một phụ nữ ở gần đền. Sau đó Chandra được sinh ra, có dạng của một hài nhi bình thường.
Chỉ một thời gian sau người ta đồn đại vợ của một người Bà-la-môn sinh một đứa con trai, trên trán có dấu đỏ, dấu hiệu của hiền nhân và miệng ngậm một hạt ngọc trai.
Nhà vua cùng cận vệ liền đến ngay thăm đứa bé. Sau khi kiểm soát, nhà vua trở về mở áo quan ra thì viên ngọc trai trên miệng đã biến mất và dấu đỏ trên trán của Chandra cũng không còn.
Đúng như lời hứa, pháp sư nọ cùng đệ tử theo Phật giáo và rất gần gũi với cậu bé trai ngày càng lớn. Cậu bé được cha mẹ đặt tên là Chandragomi.
Sau đó Chandragomi trở thành một luận sư, diễn giả danh tiếng thời đó. Trong viện đại học Na-lan-đà ông đại diện cho quan điểm riêng của mình về Phật giáo và tranh luận với Nguyệt Xứng (Chandrakirti) cũng là một luận sư xuất sắc. Sau bảy năm tranh luận không phân thắng bại, Chandragomi thú nhận rằng chính đức Quán Thế Âm (6) bất tử đã bày vẽ cho ông trả lời các câu hỏi hóc búa của Chandrakirti. Nghe thế Chandrakirti cười lớn và thú nhận trước quần chúng rằng lý luận của ông lại được đức Văn-thù-Sư-Lợi (16) chỉ bày cho.
- Tác giả : Surya Das
- Dịch giả : Nguyễn Tường Bách
*
PHỤ CHÚ:
(6) Quán Thế Âm: Một trong những vị Bồ-tát quan trọng nhất của phái Đại thừa. Quán Thế Âm thể hiện lòng bi, một trong hai dạng của Phật tính. Trong nhân gian ngài là vị bảo hộ tránh tai họa và thường được phụ nữ hiếm muộn cầu tự. Trong các loại tranh tượng về ngài, người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số đầu, tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng ngài có ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu. Trên bảo quan có hình Phật A-di-đà, xem như đặc điểm chính. Trên tay có khi cầm hoa sen xanh, vì vậy ngài cũng được gọi là “người cầm hoa sen” (Padmapani) hay nhành dương liễu và một bình cam lồ. Có người xem đức Đạt-lai Lạt-ma là ứng thân của Quán Thế Âm Bồ-tát.
(16)Văn thù Sư Lợi: Bồ-tát tượng trưng cho trí tuệ, một trong những vị Bồ-tát quan trọng của Phật giáo. Lần đầu tiên được nhắc đến trong tác phẩm Ayamanjusrimulakalpa thuộc thế kỷ IV. Tranh tượng trình bày Văn-thù với lưỡi kiếm và kinh Bát-nhã Ba-la-mật. Người ta xem đó là biểu tượng trí tuệ phá đêm tối của vô minh. Ngài được xưng tán trước khi hành giả nghiên cứu kinh điển, nhất là kinh điển thuộc Trung Luận tông. Ngài tượng trưng cho kinh nghiệm giác ngộ. Ngài cũng xuất hiện dưới dạng phẫn nộ, có tên là Yamantaka (Kẻ chiến thắng thần chết), có dạng vị thần đầu bò. Đây là dạng thần bảo hộ Yidam quan trọng của Gelugpa. Trong Phật giáo Tây Tạng, các vị luận sư xuất sắc như Tsongkhapa thường được xem là một hiện thân của Văn-thù.
*