SƯ TỬ TUYẾT
BỜM XANH
*
Lời cuối cùng của Milarepa
Jetsun Milarepa(1) là một vị Tăng phiêu bồng nổi tiếng nhất Tây Tạng, đồng thời là một du ca. Ngài sống cách đây khoảng chín trăm năm trong một hang đá ở Hi-mã-lạp sơn và đặt những bài ca kệ một cách bất ngờ, không suy nghĩ, người đời sau viết lại thành sách và ngày nay, trong thế kỷ 20, sách này đã được in ra nhiều thứ tiếng, để lại cho chúng ta.
Tương truyền rằng, Milarepa là người đạt giác ngộ hoàn toàn chỉ trong một đời làm người, và bằng cách tu tập thiền định trong một cuộc sống độc cư hàng chục năm trời.Trong thời gian tu tập ngài sống bằng một loại rau mọc hoang, ví vậy da ngài mang màu xanh. Vì lẽ đó mà học trò ngài, bên cạnh những cái tên tôn quý tặng ngài, còn gọi là ‘tu sĩ màu xanh’.
Đạo sư của Milarepa có tên là Marpa (2), một nhà tiên tri nổi tiếng, đã từng thiền định mười bảy năm tại Ấn Độ và là người mang giáo pháp ‘Đại Pháp Ấn ‘ từ Ấn Độ qua Tây Tạng. Một trong những học trò giỏi nhất của Milarepa là Gampopa(3) mà câu chuyện sau đây kể về ông.
Gampopa là một y sĩ và đã là một Lạt-ma thông thái. Một ngày kia, ông bỗng thấy linh ảnh của một vị Tăng sĩ màu xanh, tóc tai rối bù. Trong ảnh đó, vị Tăng sĩ nhìn ông cười, mắt sáng long lanh và nhổ nước bọt vào mặt ông.
Không bao lâu sau đó, Gampopa bắt đầu du phương, đó là một điều mà các vị Lạt-ma thỉnh thoảng vẫn làm. Trên đường đi, ông bị lạc vào một vùng hẻo lánh của Hi-mã-lạp sơn và quả nhiên gặp một người có da màu xanh, trông rất ốm yếu.
Gampopa đi từ từ đến vị Tăng sĩ ở trần, chắp tay chào hỏi, đó là người đầu tiên ông gặp sau mấy ngày đi lạc.
Milarepa nhếch mép cười khi thấy Gampopa ngần ngừ bước vào. Không nói gì cả, Milarepa đưa cho Gampopa một cái sọ người đựng đầy tràn một loại bia và yêu cầu Gampopa uống hết, theo cách của Mật giáo bày tỏ phép tâm truyền tâm giữa thầy và trò.
Gampopa từ chối không uống, ông không thể uống rượu vì giới luật không cho phép.
Milarepa cười lớn, giống như trong linh ảnh đã hiện, và nói ngay rằng, theo học một vị Phật đang hiện tiền tốt hơn bám giữ vào một giới luật. Ngay tại chỗ, Gampopa uống cạn một hơi. Sau đó Gampopa nhìn vào mắt Milarepa và nhận ra rằng, linh ảnh đã biến thành sự thật: vị Tăng sĩ giác ngộ này xem như đã nhổ vào mặt ông và đã trao truyền năng lực cho kẻ thông thái nhưng chưa thực sự thức tỉnh đó.
Cũng trong phút đó, Mirarepa biết đã tìm ra truyền nhân của mình.
Sau đó, Gampopa ở lại với thầy mình nhiều năm, tu tập thiền định và nghe giảng pháp. Một ngày kia, Milarepa cho hay Gampopa đã chín, đã tới lúc rời thầy ra đi. Tới ngày từ giã thầy và xa thầy mãi mãi, Gampopa quì dưới chân Milarepa, để cho vị đạo sư để hai chân lên đầu mình và nhận một luồng chân khí, nhờ đó Gampopa đạt được tâm thức Đại viên cảnh trí của Phật.
Sau buổi lễ này, Gampopa xin thầy cho một lời nhắn nhủ cuối cùng. Milarepa nhún vai và nói: “Ngồi thiền thì ngươi còn phải ngồi nhiều và thường xuyên, còn học thì tuyệt đối không còn gì để học nữa”.
Sau đó, Milarepa không nói gì nữa. Gampopa xuống núi, vừa đi qua khởi một con suối thì nghe phía sau Milarepa kêu réo: “Ta còn một lời dạy cuối cùng”, tiếng kêu lẫn trong tiếng suối reo. “Và lời này thật sự là bí mật và thâm sâu, riêng giành chỉ dạy cho những bậc xuất sắc nhất trong giới thượng căn”.
Gampopa yên lặng nín thở, tim đập thình thình. Milarepa quay lưng lại, vén váy lên và cho Gampopa thấy mông đít đã đóng thành sẹo sau nhiều năm ngồi trên đá. “Lời dạy cuối cùng của ta đây hãy nhớ”, Milarepa kêu to.
- Tác giả : Surya Das
- Dịch giả : Nguyễn Tường Bách
PHỤ CHÚ
1. Milarepa:Tên Tây
Tạng có nghĩa “Mila người mặc áo vải khổ hạnh” (1052-1135). Một trong
những thánh nhân nổi tiếng nhất của Tây Tạng. Ông là học
trò của Marpa và bị thầy thử thách khắc nghiệt, cuối cùng ông
được truyền giáo pháp Đại thủ ấn (Mahamudra) và Naro
Chodrug. Ông sáng lập tông phái Kargyupa. Ngày nay Phật
giáo Tây Tạng vẫn còn nhắc nhở về cuộc đời và các bài ca của
ông. Milarepa sinh tại Tây Tạng, gần biên giới Nepal. Lúc ông
lên bảy, cha mất, gia sản bị chiếm đoạt, gia đình ông bị đối xử tệ
bạc. Nhằm trả thù, ông học phép tà và trong một lần dùng phép,
ông giết hại nhiều người. Ăn năn, ông tìm gặp đạo sư của tông
Nyingmapa là Rongton, nhưng vị này khuyên ông nên gặp Marpa. Ông trở thành đệ
tử của Marpa năm 38 tuổi, nhưng suốt sáu năm ông chỉ được xem là kẻ hầu,
và Marpa thử thách khắc nghiệt khiến ông kiệt sức và gần
muốn tự sát. Nhờ vậy ác nghiệp được trả xong. Marpa bắt đầu cho
ông học pháp bằng cách sống viễn ly cô tịch, truyền giáo pháp
Naropa và đặc biệt dạy phép nội nhiệt. Chỉ khoác một chiếc áo
mỏng manh, Milarepa sống nhiều năm trong cái lạnh của Himalaya, chỉ chuyên
tâm thiền định trong hang động. Sau chín năm độc ẩn, ông bắt đầu nhận
học trò, trong đó có y sĩ Gampopa là người quan trọng nhất. Ông mang giáo
pháp cho đời bằng các bài ca bất hủ.
2. Marpa
(1012-1097): Đạo sư nổi tiếng của Nam Tây Tạng. Ông
đi Ấn Độ và mang về giáo pháp Đại thủ ấn, Naro Chodrug.
Marpa là thầy của Milarepa và đóng vai trò quan trọng nhất
trong tông phái Kargyupa. Ông là người tu hành nhưng
vẫn tham gia công việc thế tục một cách hài hòa. Thời
trẻ, Marpa học tiếng Sanskrit, sau đó ông đổi toàn bộ sản nghiệp lấy
vàng để du hành truân chuyên sang Ấn Độ. Tại đó, ông gặp Naropa,
là người giáo hóa ông suốt 16 năm. Trở về Tây Tạng,
ông phiên dịch kinh sách, sống cuộc đời nông dân, lập
gia đình với Dagmema và có nhiều con. Sau đó trên đường tìm đạo, ông lại
đi Ấn Độ một lần nữa. Về lại Tây Tạng, ông nhận Milarepa
làm học trò. Sau khi đã thử thách khắc nghiệt ông mới chịu
truyền bí pháp cho Milarepa. Khi tuổi đã cao, ông di Ấn Độ lần
thứ ba vì một bí pháp khác. Tại đó ông gặp Atisha và gặp Naropa lần
cuồi. Marpa thực hiện phép yoga giấc mộng và tiên tri việc thành
lập tông Kargyupa.
3. Gampopa
(1079-1153): Một trong những cao tăng Mật tông quan trọng của
dòng Kagyupa tại Tây Tạng. Năm 26 tuổi sau khi vợ mất, ông trở thành tăng
sĩ và theo giáo pháp của phái Kadampa. Trong quá trình tu học,
ông được gặp Milarepa, một vị cao tăng đắc đạo, và được Milarepa
truyền cho Đại Thủ Ấn. Sau Milarepa mất, ông thành lập tông
Kagyupa. Ông là tác giả của “Lamrim” (báu vật giải thoát), đã
hợp nhất hai trường phái Kagyupa và Kadampa, “như hai dòng nước hòa vào nhau”.
*