*
Cuối năm 1988, khi tin hai vị tu sĩ Phật giáo Trí Siêu (Lê Mạnh
Thát) và Tuệ Sỹ bị nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam kêu án tử hình truyền ra hải
ngoại, nhiều người mới tò mò tìm đọc những gì hai vị này đã viết. Họ tìm thấy
những bài khảo cứu văn sử học của Lê Mạnh Thát, và những tùy bút đầy chất thơ
phiêu bồng của Tuệ Sỹ.
Rất nhiều người đã ngạc nhiên. Dường như không
có gì gần gũi giữa những bài khảo cứu khô khan, những bài thơ “viễn mộng” với những hoạt động chính trị nhằm lật đổ một chế độ
chuyên chế, chưa nói tới những hoạt động nguy hiểm đến độ chính quyền phải lập
tòa án đặc biệt và kêu án tử hình.
Hồi đó, báo chí đã cho đăng tải một số thơ cũ và mới của Tuệ Sỹ.
Bài “Tôi Vẫn Đợi” dưới đây là bài Tuệ Sỹ mới làm sau này, có lẽ lúc đang bị
giam chờ ngày ra tòa:
Tôi
vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu
xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong
bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một
vì sao bên khóe miệng rưng rưng
Tôi
vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu
đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn
hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài
con sông tràn máu lệ quê cha.
Tôi
vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên
những người xuôi ngược Thái bình dương
Người
ở lại với bàn tay bạo Chúa
Cọng
lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.
Rồi
trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón
tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi
khép lại hàng mi về cõi mộng
Như
sương mai, như bóng chớp, mây chiều.
Thú thật đọc xong bài thơ này, cảm tưởng ban đầu của tôi là hơi
hụt hẫng, thất vọng.
Thơ của một người tử tù đây ư? Không nói ra, nhưng lâu nay tôi
vẫn giữ một định kiến hoặc một ước lệ về thể loại thơ tù.
Ước lệ về khung cảnh thơ:
song
sắt, vách ngục, máu tra tấn, thân còm cõi…
Ước lệ về không khí thơ:
u
uất, phẫn nộ, khinh mạn, oán hờn…
Định kiến về nhân cách người thơ:
cao
ngạo, bất khuất, quắc mắt mà nhìn kẻ đưa mình ra pháp trường, uy vũ kềm kẹp
không làm cho run sợ.
Và định kiến về dự phóng cho tương lai:
ngục
tù không ngăn được diễn tiến tất yếu của lịch sử, thân tù đơn độc nhỏ nhoi dù
bị hủy diệt cũng không ngăn được những con người bất khuất khác noi gương tiếp
nối…
Thơ người tử tù phải là một sứ điệp rõ ràng làm cương lĩnh cho
hành động. Đem bao nhiêu cái khuôn thước có sẵn trên đây mà so với bài thơ Tuệ
Sỹ, tôi bị hụt hẫng hoang mang là phải!
Tôi đã dựa vào những khuôn thước trí tuệ thông tục mà đọc bài
thơ, và cố tìm hiểu sứ điệp ẩn giấu sau mười sáu câu thơ tám chữ.
Trước hết là khuôn thước thời gian. Nếu căn cứ vào tiêu chuẩn
này, bài thơ được phân làm hai phần: phần dự phóng tương lai của ba đoạn
thơ đầu, bắt đầu bằng các chữ Tôi vẫn đợi: phần trở lại thực tại tù tội ở
bốn câu cuối bắt đầu bằng ba chữ Rồi trước mắt.
Nếu chia bài thơ ra hai phần như vậy, thì ý nghĩa của bài thơ tù
đượm chất bi quan, như con hổ bị giam trong cũi sắt nhớ tiếc và mơ tưởng núi
rừng thung lũng mênh mông của những ngày tự do.
Ba đoạn thơ đầu là những dấu hỏi dành cho tương lai, mở ra những
khả thể để đến đoạn cuối là một dấu than đột ngột tàn nhẫn, như một giọt lệ rỏ
lên mọi hy vọng, chấm dứt mọi khả thể.
Một số bài thơ của Cao Bá Quát (cũng là một tử tù) được làm theo
dạng này, gần gũi nhất là bài Quá Dục Thúy Sơn (Qua núi Dục Thúy) dưới đây:
Thiên
địa hữu tư sơn
Vạn
cổ hữu tư tự
Phong
cảnh dĩ kỳ tuyệt
Nhi
ngã diệc lai thử
Ngã
dục đăng cao sầm
Hạo
ca ký vân thủy
Hữu
ước nải vi tư
Phàm
sự đại đô nhĩ
Trời
đất có núi ấy .
Muôn
thuở có chùa này
Phong
cảnh đã kỳ tuyệt
Lại
thêm ta đến đây
Ta
muốn lên đỉnh núi
Hát
vang gửi nước mây
Ao
ước mà không được
Việc
đời thường như vầy.
(Ngô Lập Chi dịch)
Tuệ Sỹ từ ô cửa ngục gửi ra cho nhân gian những tiếng thở dài
hay sao?
Tôi đã kiểm chứng cách hiểu ban đầu của mình bằng cách đọc lại
lần nữa toàn bài thơ, và bớt chú tâm đến những mốc thời gian mở đầu các tiểu
đoạn.
Tôi không tìm thấy những tiếng thở dài. Không có cả những lời
than van. Thoang thoảng đâu đó, khi rõ rệt, khi mơ hồ, tôi có cảm tưởng đang
nghe một tiếng võng đưa, hoặc những lời mẹ ru con dìu dặt, mơn trớn, vỗ về. Có
cái gì rộng rinh không thể gói trọn bằng ngôn ngữ hoặc ý niệm cụ thể.
Tôi bắt đầu ngờ vực cách phân định thời gian rành mạch ban đầu,
và thử tìm đọc bài Tôi Vẫn Đợi theo một cách khác.
Chẳng hạn thử tìm hiểu ý nghĩa của màu sắc và âm thanh.
Nếu như vậy, mỗi đoạn thơ bốn câu tự nó đã mang đủ một sứ điệp
trọn vẹn, không còn cần đến cả bài.
Xin đọc lại đoạn thơ đầu:
Tôi
vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu
xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong
bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một
vì sao bên khóe miệng rưng rưng.
Đúng là một tập hợp của những thi ảnh phức tạp
(đôi khi mâu thuẫn nhau) với những nối kết lỏng lẻo, mờ nhạt, nhưng vẫn lập
thành một khối thống nhất nhờ liên hệ văn phạm và vần điệu hợp nhất một cách
bình thường.
Câu thứ nhất nói đến màu xanh của đêm, câu thứ hai giải thích thêm một ẩn ngữ
(màu xanh trong tiếng khóc ven rừng).
Ẩn ngữ này tưởng lại được giải thích trong câu thứ ba (màu xanh
trong tiếng khóc, trong bóng tối hận thù) nhưng không, đó chỉ là một liên hệ
giả. Những thi ảnh của hai câu thơ đầu được lặp lại ở hai câu sau (khắc khoải ố
tha thiết, tiếng khóc ố rưng rưng), thêm vào đó, chữ trong khiến chúng ta có
cảm tưởng như hai câu sau là phụ ý chuyển của hai câu trước.
Thật sự không phải vậy. Hai câu sau bay bổng lên một vũ trụ
khác, cất cánh khỏi những hệ lụy nhân gian, những ti tiện của tranh chấp và thù
hận, để đạt đến một cõi sáng láng hơn, cao cả hơn, mà biểu trưng là một ánh
sao, một nụ cười. Bốn câu thơ di chuyển theo chiều cao, từ bậc thấp của những
tranh chấp ti tiện đớn đau đến bậc cao của thức tỉnh giác ngộ.
Đoạn thơ thứ nhì:
Tôi
vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu
đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn
hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài
con sông tràn máu lệ quê cha.
Được thừa hưởng tinh chất của đoạn thứ nhất nên sự chuyển hóa
đơn giản hơn, không quá rối rắm mâu thuẫn hoặc quằn quại vươn mình lên như ý
thơ của đoạn thứ nhất.
Thơ đoạn này di chuyển theo chiều rộng và cũng
bắt đầu bằng một màu sắc:
màu đêm đen.
Bố trí văn phạm của đoạn thơ thứ nhì cũng giống y như đoạn thơ
trước, câu sau luôn giữ nhiệm vụ giải thích một chữ quan trọng của câu trước
(đêm đen trong câu 5 và màu đen của câu 6, ánh mắt của câu 6 và nhìn hun hút
của câu 7, dài thêm lịch sử của câu 7 và dài con sông của câu.
Từ màu đêm đen, Tuệ Sỹ không gợi nhớ màu đêm u tối của sinh lão
bệnh tử mà gợi ra màu đen của một ánh mắt. Phải rồi, tất cả cuộc đời bắt đầu
bằng một cái nhìn, một lối nhìn. Có những cái nhìn chìm đắm chết đuối vào sắc
tướng, có những cái nhìn thấu suốt được chân lý của cuộc sinh hóa. Thơ di
chuyển theo chiều rộng của thời gian, thơ nhìn ra được diễn tiến của cuộc đời
tự ngàn xưa, nhìn ra được cốt tủy mọi biến động của lịch sử cũng như thấu hiểu
do đâu có cảnh núi xương sông máu trên quê hương thân yêu. Ánh mắt người tử tù
không dừng lại ở những phẫn nộ oán hờn tầm thường và ước vọng dung tục. Ánh mắt
đó vượt ra ngoài, vượt lên trên mọi thứ song sắt, vách ngục, kể cả song sắt
vách ngục của mê chấp.
Sức chuyển biến của thơ, sức thăng hoa của ý đến cuối Câu thơ
thứ tám như vậy là đã đến đỉnh chót của nó, đáng lý sau câu thứ tám, Tuệ Sỹ có
thể dừng lại, không cần phải viết thêm gì nữa. Trong ngục tối, nhà thơ sống với
màu xanh xao của chút ánh sáng lọt qua cửa ngục và màu đen mênh mông, từ đó làm
chất liệu khởi thủy của sáng tạo và suy tưởng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng
người tử tù còn cảm nhận được sự sống của thế giới bằng những tiếng động bên
ngoài. Hai đoạn thơ sau của Tuệ Sỹ là một hành trình khác, khởi đầu không bằng
màu sắc mà bằng âm thanh.
Xin đọc lại cả hai đoạn cuối:
Tôi
vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên
những người xuôi ngược Thái bình dương
Người
ở lại với bàn tay bạo chúa
Cọng
lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.
Rồi
trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón
tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi
khép lại hàng mi về cõi mộng
Như
sương mai, như bóng chớp, mây chiều.
Tôi vừa viết xuống hai chữ khởi đầu. Thật ra, viết như vậy chưa
đúng lắm, vì Tuệ Sỹ không làm một bài thơ khác mà chỉ chuyển hóa lối sử dụng
hình ảnh cho thơ. Do đó, bố cục văn phạm của đoạn thơ thứ ba vẫn giữ y như lối
bố cục của hai đoạn thơ trước, còn ý thơ thì cũng tiếp nhận sức thăng hoa của
phần trên để nói lên một ước vọng mà mới đọc qua, chúng ta tưởng là nghịch lý.
Ước vọng được quên, quên hết.
Quên những tiếng sóng vỗ của cảnh đời bão nổi ngoài kia, những
đợt sóng tàn bạo khiến nhà thơ phải xắn tay áo nâu lên thử giăng một cánh buồm,
từ đó đưa đến cảnh tù tội gông cùm hiện tại. Quên thân phận bèo bọt của hàng
triệu người phải đành đoạn liều chết vượt biển tìm tự do. Quên cả những cọng
lau gầy oằn vai chịu đựng những bạo tàn từ tay bạo chúa của hơn bảy mươi triệu
người ở lại.
Tất cả những điều tưởng là nghịch lý ấy được Tuệ Sỹ giải thích ở
đoạn thơ cuối bằng một hình ảnh, bằng một âm thanh hết sức biểu trưng
: tiếng gõ nhẹ của ngón tay lên tường rêu lạnh của ngục tối.
Nó biểu trưng vì đó là một thứ âm thanh lặng lẽ, hoàn toàn trái
ngược với tiếng sóng vỗ cuồng nộ ồn ào bên kia vách ngục.
Ngón tay ốm o yếu ớt của một tử tù thân bé bỏng lại gõ vào một
vách ngục rêu bám, thì chắc chắn không tạo ra được tiếng dội nào lớn lao. Cho
những bạn tù cùng khu biệt giam. Cho những tên cai ngục. Huống gì là cho những
người không ở vào cảnh tù tội.
Đó không phải là loại âm thanh dành cho thính giác, mà là âm
thanh dành cho tri giác, tuệ giác. Âm thanh đó, tiếng gõ nhịp đó không phải do
sức mạnh của bắp thịt, của bạo động nhằm xô ngã tường rêu phá đổ nhà ngục,
nhưng lại có một sức mạnh tinh thần lớn lao để đưa con người vượt lên trên mọi
thứ ngục tù: sức mạnh của giác ngộ, của tỉnh thức.
Hai câu thơ cuối khép lại một thế giới huyễn mộng mê chấp, và mở
ra một thế giới mới:
Rồi
khép lại hàng mi về cõi mộng
Như
sương mai, như bóng chớp, mây chiều.
Vẫn còn một câu hỏi lớn:
Ý thức được cái sương mai, cái bóng chớp của nhân sinh đã đủ để
ngăn bàn tay bạo chúa và làm cho dòng sông quê cha thôi tràn máu lệ hay chưa?
Đây là câu hỏi nhức nhối thường xuyên ám ảnh Phật tử mỗi lần họ
phải đối diện những đàn áp bất công của xã hội họ đang sống. Mỗi lần như vậy,
Phật tử vẫn thường nhắc tới khuôn mẫu sống hài hòa giữa đạo và đời của các tu
sĩ Phật giáo thời Lý, Trần, dù biết cách tổ chức xã hội thời xa xưa đó khác với
bây giờ.
Bài thơ của Tuệ Sỹ nhắc tôi nhớ tới câu hỏi
nhức nhối này, vì Tuệ Sỹ là một tu sĩ Phật giáo “đi vào cuộc đời”, một Phật tử hành động. Chắc chắn Tuệ Sỹ đã ưu tư đi tìm lời đáp
trước khi quyết định hành động chống lại chế độ Cộng sản. Và suốt thời gian bị
giam cầm, Tuệ Sỹ còn có nhiều thì giờ và điều kiện hơn để suy nghĩ về câu trả
lời. Vậy mà sứ điệp Tuệ Sỹ gửi ra ngoài cửa ngục dường như thiếu hẳn chất thực
tế. Bài thơ không hề là một lời tố cáo đầy phẫn nộ, lại không phải là một bài
hịch. Không phải là một tiếng sấm.
Ngược lại, như tôi đã so sánh ở trên, đây là những lời ru hiền
hòa, lời vỗ về của mẹ, lời thì thầm của lá, của hoa, của cây cỏ.
Không phải là mũi nhọn công phá vào vách khám
mà là một làn hương tỏa lên trên, len qua kẽ ngục và tỏa rộng lên trời cao.
Vì sao vậy?
Tôi cho rằng ngay từ cốt tủy của Phật pháp, khả năng hoàn thiện
con người và cuộc sống không nằm ở sức mạnh của tổ chức mà nằm ở sức giác ngộ
của cá nhân. Đạo Phật không chấp nhận Cái Duy Nhất, Cái Tuyệt Đối, Cái Vĩnh
Cửu, Cái Sáng Lòa soi đường cho hằng hà sa số đời sống trước sau. Ai cũng có
thể trở thành Phật.
Mỗi người tự đốt đuốc lên và chọn con đường sáng láng cho mình,
khỏi cần cẩn thận rón rén đi theo dấu chân của người đi trước. Mỗi người chịu
trách nhiệm lấy chính số phận mình.
Mỗi người không cần phải khép nép sợ hãi trước bất cứ Thần lực
thiêng liêng nào, vì nếu tỉnh thức, mỗi người chính là Thần lực thiêng liêng
ấy.
Người còn vướng mắc vào những giới hạn, những chấn song của mê
chấp thì thường núp vào đám đông, mong che chở của tập thể. Nhưng lúc đã thấy
được chân tướng của những sương mai, bóng chớp, thì mỗi người đều có một thần
lực riêng. Điều đó giải thích được tại sao vào những giai đoạn bi đát nhất của
lịch sử dân tộc, Phật giáo không suy yếu theo mà ngược lại, trở thành chỗ dựa
tinh thần mạnh mẽ góp phần đưa dân tộc qua mọi gian truân thử thách.
Nguyễn Mộng Giác
Nguồn >> https://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2019/06/21/doc-lai-tho-tue-si-nguyen-mong-giac/
(Tham Khảo >> https://nguyenmonggiac.com/tap-chi-van-hoc/503-doc-lai-tho-tue-sy.html
)