Bóng nắng gần tới đỉnh đầu. Sư cụ chùa Đồi Mai thủng thẳng trở về trai phòng. Nhà sư già gỡ chiếc nón tu lờ, sắp ngồi vào thụ trai thì có tiếng con trẻ gọi ở ngoài cổng chùa. Một chú tiểu lễ phép bước lên tam cấp:
– Bạch cụ, có người
con trai cụ Sáu xin vào.
– Vậy chú vẫn đóng cửa
chùa đó à? Chú ra mở mau không có người ta phải đứng nắng lâu. Cổng nhà chùa
bao giờ cũng nên để ngỏ. Từ giờ chú nên nhớ: sáng sớm tụng kinh nhật tụng và
thỉnh chuông xong là phải mở rộng cửa chùa và tối đến, lúc nào học xong kệ thì
mới đóng. Kẻo nữa khách thập phương họ kêu đấy.
Tiểu ra được một lát
thì một người con trai trạc mười bảy tuổi xúng xính trong chiếc áo dài thâm,
chân xéo lấm, tay bưng cái khay tiến vào tăng xá, vái sư cụ:
– Bạch cụ, thầy con
cho con mang xuống biếu cụ bình trà đầu xuân. Và xin phép cụ cho ra giếng chùa
nhà gánh một gánh nước.
Nhà sư già đã quen với
những việc biếu và xin mượn này ở dưới cụ Sáu, khẽ cất tiếng cười. Trên khuôn
mặt khô xác, nụ cười không có gì là ấm áp thiết tha. Nó chỉ đủ là hiền lành
thôi.
– Thế cháu đựng nước
bằng cái gì?
– Dạ có người nhà quẩy
nồi và gánh đi theo còn chờ ở ngoài.
– Ai di đà phật? Nắng
này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu
ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm,
chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít
lộc Phật.
– Bạch cụ, cháu ăn mặn
ở nhà vẫn còn lửng dạ.
Sư cụ chùa Đồi Mai
không nài thêm và vẫn chỉ cười rất thuần hậu.
– Cháu có biết cụ Sáu
nhà đến xin nước ở chùa đây đã mấy năm nay rồi không? Gần mười năm. Uống trà
tàu như thầy cháu thì cũng có một. Cứ nước giếng chùa đây mới chịu pha trà. Lắm
lúc già tự hỏi về cái tiền thân của thầy cháu xem là như thế nào. Nghĩ đến cái
nhân duyên của thầy cháu với nhà chùa đây, thực cũng là bền và kỳ lắm cháu ạ.
Thoáng thấy tên lão
bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân
chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh
ngồi hầu chuyện bực phụ chấp đã xuất gia, liền vội vàng đứng dậy xin phép về.
– Bạch cụ, cháu vội
phải về, vì ở nhà hôm nay có khách uống trà. Có lẽ thầy cháu ở nhà đang chờ nước
về.
Nhà sư già cũng vội
theo bọn xin nước ra tới thềm ngoài. Sư cụ rút trong tay áo vải rộng ra một
chiếc quạt thước, xòe rộng hết cả nan quạt, nghiêng che đầu cho đỡ nắng và bảo
chú tiểu:
– Chú chạy mau ra
vườn, bẻ mấy cành lá đào.
Rồi cụ giữ con cụ Sáu
lại:
– Ấy, ấy, thong thả
một chút. Thả mấy cành đào có lá vào nồi nước, lúc gánh đi đường xa nó đỡ sóng
ra ngoài và về đến nhà, nước vẫn mát.
Bọn xin nước vái chào
nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của
người đầy tớ già đánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt và thẫm màu.
Những hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của
loài bò sát. Ví buổi trưa hè này là một đêm bóng trăng dãi, và ví cổng chùa Đồi
Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh
dấu con đường về của khách tục trở lại trần.
Ánh nắng già dặn buổi
trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc từ
mặt đất. Giống như vệt khói nhờ, nắng vờn qua những màu xanh bóng loáng của một
dãy xóm làng cây cối im lìm. Đứng trong cổng chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp
dưới chân mình, nhà sư già nheo nheo cặp mắt, nhìn cái nắng sáng lòa. Bọn người
xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi chuyển động lại làm tung lại phía sau
mình một chùm cát bụi mờ mờ. Gió nồm thổi mạnh, nhiều cơn, đã đem cả mảnh bụi
trần kia vào lọt cổng ngôi chùa cao ráo. Nhà sư nghĩ đến cụ Sáu, thở dài tỏ ý
tiếc cho một kiếp chúng sinh còn vướng mãi vòng nghiệp chướng.
Cụ Sáu vốn đi lại với
chùa đây kể ra đã lâu. Từ trước cái hồi nhà sư già tới trụ trì. Mấy pho tượng
Phật Tam thế bằng gỗ mít đặt ở trên bệ và mấy pho Kinh in giấy đại thừa là của
cụ Sáu cúng đấy. Cái chuông treo ở trên nhà phương trượng cũng là của ông cụ
Sáu cúng vào hồi trùng tu lại chùa. Và mỗi lần nhà chùa lập phả khuyến thì ông
cụ Sáu đứng đầu sổ. Chùa Đồi Mai ở xa làng mạc biệt lập trên một khu đồi nên
cũng ít bị phiền nhiễu bởi đám tạp khách. Thỉnh thoảng trong bọn khách đến
chơi, ông cụ Sáu được sư cụ biệt đãi nhất. Tháng một lần, nhà sư già lại giữ
ông cụ Sáu lại ăn một bữa cơm chay và lần nào từ biệt, nhà sư cũng chân thành
tặng khách một rò lan Chu Mặc. Thường thường mỗi lần gặp gỡ, thể nào hai ông
già cũng kéo nhau ra cái giếng nước mà chuyện vãn rất lâu. Nhà sư ít nhời, trầm
tĩnh ngắm bóng cụ Sáu trong lòng đáy giếng sâu. Cái bóng nhà sư già ít khi được
đậu hình cho lâu trên phiến gương nước giếng mát lạnh: chốc chốc một vài giọt
nước ngọt lại rời mạch đá tổ ong, thánh thót rớt xuống, tiếng kêu bì bõm. Ông
cụ Sáu tỳ tay vào thành giếng nhờn mịn rêu xanh, chỉ ngón tay xuống lòng giếng
sâu thẳm gần hai con sào mà nói: “Chùa nhà ta có cái giếng này quý lắm. Nước
rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng chùa nhà đây. Tôi sở dĩ không
nghĩ đến việc đi đâu xa được, cũng là vì không đem theo được nước giếng này đi
để pha trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu thề này: “Là giếng chùa nhà mà cạn
thì tôi sẽ lập tức cho không người nào muốn xin bộ đồ trà rất quý của tôi. Chỉ
có nước giếng đây là pha trà không bao giờ lạc mất hương vị. Mà bạch cụ, chúng
tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lại tụ. Địa thế chùa này, xem
ra còn dụng võ được…”. Chừng như sợ cụ Sáu bàn rộng tới những chuyện không nên
trao đổi với kẻ tu hành đã lánh khỏi việc của đời sống rồi, sư cụ vội nói lảng sang
chuyện mấy cây mít nhà chùa năm nay sai quả lắm. Rồi kéo cụ Sáu vào trai phòng
dùng một tuần nước. Theo một ước lệ rất đáng yêu đặt ra từ ngày mới làm quen
với nhau, đã mươi năm nay, bao giờ uống nước trà của nhà chùa, ông cụ Sáu cũng
được cái vinh dự pha trà và chuyên trà thay nhà chùa.
Dạo này, chắc ông cụ
Sáu bận việc nhiều nên đã mấy tuần trăng rồi mà không thấy vãn cảnh chùa uống
nước thăm hoa, để cho sư cụ cứ nhìn mấy chậu Mặc lan rò trổ hoa mà tặc lưỡi.
Cùng bất đắc dĩ phải ngắt cắm vào lọ con vậy. Dạo này cụ Sáu chỉ cho người nhà
xuống xin nước giếng thôi. Và trưa hôm nay lúc lặng ngắm hai thầy trò người con
ông cụ Sáu đem nước ra khỏi chùa, lúc trở vào, nhà sư già thở dài cùng sư bác
chờ đấy: “Ông cụ Sáu này, nếu không đam mê cái phong vị trà tàu, đam mê đến
nhiều khi lầm lỗi, nếu ông ta bỏ được thì cũng thành một ông sư tại gia. Danh
và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã
coi cái phú quý nhỡn tiền không bằng một ấm trà tàu. Nhưng một ngày kia, nếu
không có trà tàu mà uống nữa thì cái ông cụ Sáu này sẽ còn khổ đến bực nào.
Phật dạy rằng hễ muốn là khổ. Biết đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh
của thế giới ba nghìn, sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt của một ông
già năng lên chùa nhà xin nước ngọt về để uống trà tàu. Mô Phật!”.
Ông cụ Sáu, hôm nay
lấy làm thích cái người khách lạ đó lắm. Người khách lạ vừa kể cho chủ nhân
nghe một câu chuyện cổ tích. Lê trôn chén vào lợi chiếc đĩa cổ vài ba lần,
người khách kể:
“Ngày xưa, có một
người ăn mày cổ quái. Làm cái nghề khất cái là phải cầm bằng rằng mình không
dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin.
Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố làm thế nào cho giáp được mặt chủ
nhân rồi có xin gì thì hắn mới xin. Có một lần hắn gõ gậy vào đến lớp giữa một
nhà phú hộ kia, giữa lúc chủ nhà cùng một vài quý khách đang ngồi dùng bữa trà
sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm, và ngồi thu hình ở chân cột một cách
ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả, để xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn
chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người đang khoan khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi,
và cũng tỏ vẻ khoan khoái khi hít được nhiều hương trà nóng tản bay trong
phòng. Thấy mặt mũi người ăn mày đã đứng tuổi không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân
bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay là canh cặn, hay là hơn nữa, hắn lại muốn
đòi xôi gấc, như kiểu người trong phương ngôn. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm
tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho hắn “uống trà tàu với!”. Mọi người tưởng hắn dở
người. Nhưng tại sao không nỡ đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn
nhận lấy chén trà nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một
ấm trà mới kia. Hắn nói xong, giở cái bị ăn mày của hắn ra, cẩn thận lấy ra một
cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn
cả khay trà và phát than tàu cho hắn đủ quạt một ấm nước sôi, thử xem hắn định
đùa định xược với bọn họ đến lúc nào mới chịu thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là
ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm chén, chuyên trà từ chén tống sang chén quân,
trông xinh đáo để. Lúc này không ai dám bảo hắn là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn
rách như tổ đỉa. Uống một chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn
nheo nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào nhau và thưa với chủ nhà:
“Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao quý rủ lòng thương xuống,
thực kẻ ty tiện này không có điều gì dám kêu ca lên nữa. Chỉ hiềm rằng bình trà
của ngài cho nó lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới chưa được lấy gì làm
khoái hoạt lắm”. Hắn lạy tạ, tráng ấm chén, lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong
cái ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm kỹ lưỡng cất vào bị, rồi xách nón,
vái lạy chủ nhân và quan khách, cắp gậy tập tễnh lên đường. Mọi người cho là
một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi chiều hôm ấy, cả nhà đều lấy làm kinh
sợ người ăn mày vì, ở lọ trà đánh đổ vung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được
ra đến mươi mảnh trấu”.
Ông cụ Sáu nghe khách
kể đến đấy, thích quá, vỗ đùi mình, vỗ đùi khách, kêu to lên:
– Giá cái lão ăn mày
ấy sinh vào thời này, thì tôi dám mời anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có
nhau mà thưởng thức trà ngon. Nhà, phần nhiều lại toàn là ấm song ấm quý.
– Cổ nhân cũng bịa ra
một chuyện cổ tích thế để làm vui thêm cái việc uống một tuần nước đấy thôi.
Chứ cụ tính làm gì ra những thứ người lạ ấy. Ta chỉ nên cho nó là một câu giai
thoại.
– Không, có thể như
thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão ăn mày này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào
rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những
thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã hắn cũng đã uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng
mà, ông khách này, chúng ta phải uống một ấm trà thứ hai nữa chứ. Chẳng nhẽ
nghe một câu chuyện thú như thế mà chỉ uống với nhau có một ấm thôi.
Thế rồi trong khi cụ
Sáu tháo bã trà vào cái bát thải rộng miệng vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm
quần ẩm lên, ngắm nghía mãi và khen:
– Cái ấm của cụ quý
lắm đấy. Thực là ấm Thế Đức màu gan gà. “Thứ nhất Thế Đức gan gà; – thứ nhì Lưu
Bội; – thứ ba Mạnh Thần”. Cái Thế Đức của cụ, cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần
song ẩm của tôi ở nhà, mới dùng nên cũng chưa có cao mấy.
Cụ Sáu vội đổ hết nước
sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt khách:
– Ông khách có trông
rõ mấy cái mấu sùi sùi ở trong lòng ấm đồng không? Tàu, họ gọi là kim hỏa. Có
kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim hỏa đấy.
– Thế cụ có phân biệt
thế nào là nước sôi già và nước mới sủi không?
– Lại “ngư nhãn, giải
nhãn” chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to bằng cái mắt cua thì là sủi vừa, và khi mà
tăm nước to bằng mắt cá thì là nước sôi già chứ gì nữa.
Chủ khách cả cười,
uống thêm mỗi người hai chén nữa. Cụ Sáu tiễn khách ra cổng với một câu:
– Thỉnh thoảng có đi
qua tệ ấp, xin mời ông khách ghé thăm tôi như một người bạn cũ. Mỗi lần gặp
nhau, ta lại uống vài tuần nước. Hà, hà.
Năm ấy nước sông Nhĩ
Hà lên to. Thảo nào mấy nghìn gốc nhãn trồng trên mặt đê quanh vùng, vụ đó sai
quả lạ. Cái đê kiên cố đã vỡ. Nhưng vốn ở cuối dòng nước chảy xiết, nhà cửa cụ
Sáu chưa đến nỗi bị cuốn phăng đi. Lúc nước rút, ở cái cổng gạch nguyên vẹn,
hai mảnh giấy hồng điều đôi câu đối dán cửa vẫn còn lành lặn và nét chữ vẫn rõ
ràng:
Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời, quất con ngựa rong chơi
ngoài ngõ liễu
Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất, gọi hề đồng pha nước
trước hiên mai*.
Năm sau, quãng đê hàn
khẩu, chừng hàn không kỹ, lại vỡ luôn một lần nữa. Cái cổng gạch nhà cụ Sáu vẫn
trơ trơ như cũ. Nhưng lần này thì đôi câu đối giấy hồng điều, gió mưa đã làm
bợt màu phẩm mực, ngấn nước phù sa đã phủ kín dòng chữ bằng những vạch bùn
ngang dày dặn.
Ông khách năm nọ – cái
người kể câu chuyện ăn mày sành uống trà tàu – đi làm ăn xa đã mấy năm, nhân về
qua vùng đấy, nhớ nhời dặn của cụ Sáu, đã tìm tới để uống lại với ông già một
ấm trà tàu nữa. Nhưng người khách hỏi nhà ông đến, người khách đã bùi ngùi thấy
người ta bảo cho biết rằng nhà cụ Sáu đã bán rồi. Thấy hỏi thăm tha thiết,
người vùng ấy mách thêm cho ông khách: “Có muốn tìm cố Sáu thì ông cứ xuống Chợ
Huyện. Cứ đón đúng những phiên chợ xép vào ngày tám thì thế nào cũng gặp. Chúng
tôi chỉ biết có thế thôi”.
Phải, bây giờ ông cụ
Sáu sa sút lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lấy bữa cơm cũng khó, chứ đừng nói đến
chuyện uống trà. Thỉnh thoảng có xin được người nào quen một vài ấm, cụ lấy làm
quý lắm: gói giấy giắt kỹ trong mình, đợi lúc nào vắng vẻ một mình mới đem ra
pha uống. Vẫn còn quen cái thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai,
gặp mùa hoa nở, cụ lại còn cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà giắt
trong mình, nếu đấy là trà mạn cũ.
Những buổi có phiên
chợ, cụ Sáu ngồi ghé vào nhờ gian hàng tấm của người cùng làng, bày ra trên mặt
đất có đến một chục chiếc ấm mà ngày trước, giá có giồng ngay cọc bạc nén cho
trông thấy, chửa chắc cụ đã bán cho một chiếc. Có một điều mà ai cũng lấy làm
lạ, là cụ bán lũ ấm đất làm hai lớp. Mấy kỳ đầu, cụ bán toàn thân ấm và bán rất
rẻ. Còn nắp ấm cụ để dành lại. Có lần vui miệng, cụ ghé sát vào tai người bà
con: “Có thế mới được giá. Có cái thân ấm rồi, chẳng nhẽ không mua cái nắp vừa
vặn sao? Bán thân ấm rẻ, rồi đến lúc bán nắp ấm, mới là lúc nên bán giá đắt. Đó
mới là cao kiến”.
Cụ Sáu cười hề hề, rồi
vội quay ra nói chuyện với bạn hàng đang mân mê những cái thân ấm đất đủ màu,
cái thì dáng giỏ dâu, cái thì múi na, hình quả vả, quả sung, quả hồng. Cụ đang
bảo một ông khách:
– Thế nào tôi cũng tìm
được nắp cho ông. Cứ phiên sau lại đây thế nào cũng có nắp. Không, đúng ấm tàu
đấy mà. Nếu không tin ông cứ úp ấm xuống mặt miếng gỗ kia. Cho ấm ngửa trôn
lên. Cứ xem miệng vòi với quai và gờ miệng ấm đều cắn sát mặt bằng miếng gỗ thì
biết. Nếu muốn thử kỹ nữa, quý khách thả nó vào chậu nước, thấy nó nổi đều, cân
nhau không triềng, thế là đích ấm tàu.
Nguyễn Tuân – Vang bóng một thời
Theo : https://trabavan.com/nhung-chiec-am-dat-nguyen-tuan/
Nghe đọc >> https://youtu.be/Lnd26Jwgvh8
Tham Khảo > VN Thư Quán
>> https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237nvnmn3n4nqn31n343tq83a3q3m3237nvn